Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Đảm bảo đồng đẳng giới so với thực tế.

Việc quy định như vậy nhằm xác định rõ việc đảm bảo và tạo điều kiện để nữ giới phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong tầng lớp và gia đình là trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, xã hội và gia đình

Đảm bảo bình đẳng giới so với thực tế

Trong đó, một số nội dung quan yếu, cần thiết can hệ đến bảo đảm, bảo vệ quyền bình đẳng giữa nữ và nam được ghi nhận trong các bản Hiến pháp trước đó như Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 đã không còn được quy định trong Dự thảo như: Nghiêm cấm xúc tù hãm phẩm đàn bà; lao động nữ và nam làm việc như nhau thì lương hướng ngang nhau; cần lao nữ có quyền hưởng chế độ thai sản… Trong bối cảnh tâm lý, tư tưởng trọng nam, khinh nữ còn hiện hữu khá nặng nề trong từng lớp, bình đẳng nữ, nam trong hồ hết các lĩnh vực của đời sống tầng lớp còn là đích phấn đấu lâu dài ở nước ta, các quy phạm chung chung, mang tính định hướng, khẩu hiệu, thiếu các nguyên tắc cụ thể gắn với đặc thù về giới như trong Dự thảo, thì quyền bình đẳng nam, nữ sẽ vẫn nối khó được coi trọng, chú trọng bảo đảm, thực hành một cách toàn diện, đầy đủ, hiệu quả trên thực tế.

3. Rất nhiều người chuyển giới cũng bị gạt khỏi cộng đồng vì không được pháp luật thừa nhận, chẳng thể sống đúng với giới tính mà họ mong muốn. Họ đã sống như một người nữ nhưng lại bị phân biệt đối xử vì biểu đạt giới của mình.

Cần lao nữ được trả tiền công, lương lậu như lao động nam đối với những công việc có thuộc tính, giá trị ngang nhau. Đây sẽ là cơ sở hiến định để đàn bà và nam giới có các cơ hội việc làm như nhau, bao gồm việc vận dụng những tiêu chuẩn khi tuyển dụng lao động; quyền được hưởng thù lao, phúc lợi, được đối như nhau khi làm những việc có giá trị ngang nhau cũng như trong việc đánh giá chất lượng công việc.

Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền đồng đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực. Cộng đồng này đang hiện hữu càng ngày càng rõ nét ở Việt Nam và cần được xem thuộc nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương, do bản thân họ luôn sống trong tâm lý mặc cảm rất lớn, phải chịu sự kỳ thị do thiếu sự hiểu biết, cảm thông, san sẻ của gia đình, cộng đồng, xã hội.

Hiến pháp nên thay mực tàu “công dân nam, nữ” thành “mọi người không phân biệt giới, giới tính” và mở rộng khái niệm phân biệt đối xử về “giới”. Việc quy định “nam, nữ” vô tình đã bỏ sót những người liên giới tính (sinh ra với thân thể không xác định rõ giới tính) và cũng có thể hạn chế quyền của những người chuyển giới (đặc biệt là nam sang nữ).

Bên cạnh đó, khái niệm “giới” thực tiễn không chỉ còn bó hẹp là nam và nữ mà còn có các nhóm người đồng tính, song tính, chuyển giới (lỗi do cấu trúc sinh học chứ không phải do họ có lối sống, sinh hoạt lệch lạc như lâu nay chúng ta vẫn quan niệm). Nhà nước, tầng lớp và gia đình tạo điều kiện để đàn bà phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.

Từ phân tách kể trên, nhiều quan điểm khi góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã đề nghị sửa nội dung điều 27 của Dự thảo như sau: Tại khoản 1, sửa mức: “Công dân nam, nữ bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, từng lớp và gia đình” thành “mọi người không phân biệt giới tính, đều đồng đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”.

Ảnh minh họa Tuy nhiên, so với nội dung quy định về đồng đẳng giới tại Điều 63 Hiến pháp năm 1992, nhiều quan điểm cho rằng quy định này của Dự thảo còn khá khái quát, chung chung.

Công dân nam, nữ bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. 2. Nếu pháp luật muốn bảo vệ bình đẳng giới, thì không chỉ tập kết vào hai khái niệm “nam, nữ” vốn dựa trên giới tính sinh vật học; mà phải mở rộng ra cả vai trò giới, miêu tả giới, bản dạng giới để mọi công dân đều được bảo vệ khỏi phân biệt đối về giới.

Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản”. Nguyễn An. Kế thừa ý thức đó, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tiếp hiến định quyền bình đẳng giới, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tại Điều 27 (sửa đổi, bổ sung Điều 63) của Dự thảo: 1.

Việc hiến định quyền đồng đẳng giới đã ghi nhận về mặt pháp lý quyền đồng đẳng giữa nam và nữ, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phóng thích đàn bà, từng bước nâng cao và khẳng định vai trò, vị thế người đàn bà trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tại khoản 2, đồng thời với việc nội dung “quốc gia có chính sách đảm bảo quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực” như trong Dự thảo, đoạn tiếp theo nên sửa thành: “Nhà nước, xã hội và gia đình có nghĩa vụ đảm bảo và tạo điều kiện để đàn bà phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội và gia đình”.

Ngăn cấm mọi hành vi phân biệt đối về giới”. Nhiều ý kiến cũng đề nghị Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nên bổ sung : “cần lao nữ và nam bình đẳng trong việc hưởng các thời cơ việc làm và các phúc lợi xã hội.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét